Nhiều người hiểu nhầm 2 khái niệm domain và domain name (do đôi khi ng ta nói tắt trong văn nói domain là ám chỉ domain name), xin nêu ở đây cả 2 khái niệm luôn
DOMAIN
Một domain là một tập hợp những máy tính và người sử dụng mà chia sẻ chung một cơ sở dữ liệu dịch vụ thư mục. Cơ sở dữ liệu dịch vụ thư mục cho phép tập trung quản trị những tài khoản quyền, bảo mật và tài nguyên của domain . Cơ sở dữ liệu dịch vụ thư mục được lưu trong một domain controller .
Trong khi cả những thành viên của workgroup và domain đều có thể chia sẻ tài nguyên, domain cung cấp một phương pháp tập trung để chia sẻ tài nguyên của mạng . Trong một domain, những máy tính chạy Windows NT Workstation và những máy tính chạy Windows NT Server thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Lấy taì khoản người sử dụng có giá trị từ cơ sở dữ liệu thư mục .
+ Cho phép truy cập đến những tài nguyên được định nghĩa trong cơ sở dữ liệu thư mục .
+ Có chức năng như một phần của quản trị nhóm một cách tập trung
DOMAIN NAME (TÊN MIỀN)
Như chúng ta đã biết Internet là một mạng máy tính toàn cầu , do hàng nghìn mạng máy tính từ khắp mọi nơi nối lại tạo nên . Khác với cách tổ chức theo các cấp : nội hạt, liên tỉnh, quốc tế của một mạng viễn thông như mạng thoại chẳng hạn, mạng Internet tổ chức chỉ có một cấp, các mạng máy tính dù nhỏ, dù to khi nối vào Internet đều bình đẳng với nhau. Do cách tổ chức như vậy nên trên Internet có cấu trúc địa chỉ , cách đánh địa chỉ đặc biệt , rất khác cách tổ chức địa chỉ của mạng viễn thông.
Địa chỉ Internet (IP) đang được sử dụng hiện tại là (IPv4) có 32 bit chia thành 4 Octet ( mỗi Octet có 8 bit , tương đương 1 byte ) cách đếm đều từ trái qua phải bít 1 cho đến bít 32, các Octet tách biệt nhau bằng dấu chấm (.) và biểu hiện ở dạng thập phân đầy đủ là 12 chữ số.
Ví dụ một địa chỉ Internet : 146.123.110.224
0 nhận xét:
Đăng nhận xét